Tuổi vị thành niên là giai đoạn có nhiều biến động về mặt thể chất, tâm lý, và xã hội, từ đó góp phần hình thành rối loạn trầm cảm ở các bạn vị thành niên. Ở Việt Nam, khảo sát năm 2020 thống kê khoảng 31,7% trong 6047 học sinh trung học có những triệu chứng của rối loạn trầm cảm [10]. Rối loạn này cũng chính là một trong những vấn đề tâm lý hàng đầu liên quan đến ý định tự sát của học sinh THPT [4]. Có thể thấy rằng, trầm cảm gây ảnh hưởng đáng kể đối với tâm lý của các bạn học sinh nói riêng và các vấn đề xã hội nói chung.
Rối loạn trầm cảm là gì?
Rối loạn trầm cảm thường được đặc tả bởi nỗi buồn bã, trống rỗng kéo dài. Đồng thời, rối loạn này có thể ảnh hưởng đến thể chất và tư duy của các bạn học sinh, tạo nên ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng sinh hoạt và học tập. Các bạn mang rối loạn trầm cảm thường có những biểu hiện như sau:
- Cảm giác buồn, cô đơn, chán nản
- Thiếu năng lượng
- Khẩu vị thay đổi
- Gỉảm/ tăng cân đột ngột
- Mất tập trung
- Rối loạn giấc ngủ
- Đánh giá thấp bản thân
- Có ý định tự sát

Các yếu tố liên quan tới rối loạn trầm cảm ở tuổi vị thành niên
Trong lứa tuổi vị thành niên, một vài yếu tố liên quan tới sinh học, tâm lý, và xã hội có thể tăng khả năng hình thành rối loạn trầm cảm ở học sinh Việt Nam. Một nghiên cứu cho thấy các học sinh nữ có dấu hiệu trầm cảm nghiêm trong hơn học sinh nam. Vấn đề này có thể liên quan tới việc các bạn nữ thường sẽ dậy thì sớm hơn [11] và lo âu về nhiều vấn đề hơn các bạn nam, ví dụ như những vấn đề về vóc dáng. Ở khía cạnh trường học, vấn nạn về việc chú trọng thành tích [6] cũng đã gây áp lực lên các bạn và góp phần hình thành rối loạn trầm cảm. Theo khảo sát toàn quốc về giới trẻ Việt Nam (SAVY), áp lực học tập bởi các bạn đồng trang lứa và lo lắng về việc phụ sự kỳ vọng của ba mẹ, thầy cô có liên quan trực tiếp tới các triệu chứng trầm cảm ở học sinh [3].
Điều đáng lo ngại hơn là chính áp lực học tập cũng liên quan tới những trải nghiệm gây tổn thương tâm lý của học sinh, chẳng hạn như bị trách phạt, la mắng. Ở Việt Nam, việc con cái bị ba mẹ la mắng, đánh đập vì con có thành tích học tập không tốt là rất phổ biến [5]. Theo một nghiên cứu thực hiện trên 4957 học sinh THCS và THPT, có khoảng 86% học sinh đã trải qua ít nhất một lần bị bạo lực/ trách phạt về mặt thể chất hoặc tinh thần [8]. Những học sinh trải qua nhiều dạng chấn thương tâm lý như trên sẽ có nguy cơ hình thành rối loạn trầm cảm cao hơn gấp 6 lần so với các bạn cùng trang lứa. Những yếu tố trên cho thấy được những mối nguy hiểm tiềm tàng trong chặng đường phát triển của lứa tuổi vị thành niên. Những sự hỗ trợ phù hợp và có tính chuyên môn cao là điều cần thiết để bảo vệ các bạn học sinh vượt qua các yếu tố trên.

Những thách thức hiện nay
Có một số rào cản ngăn các thanh thiếu niên Việt Nam tìm kiếm sự hỗ trợ thích hợp khi gặp phải rối loạn trầm cảm. Thứ nhất, sự hiểu biết về sức khỏe tâm thần nói chung và rối loạn trầm cảm nói riêng vẫn còn hạn chế ở Việt Nam. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, mặc dù các bạn học sinh có mức độ hiểu biết về sức khỏe tâm thần ở mức trung bình [9], độ hiểu biết ở toàn dân nói chung đều chỉ ở mức độ thấp [2]. Chẳng hạn trầm cảm thường hay bị đánh đồng với tình trạng “suy nghĩ nhiều”. Đôi khi những triệu chứng ở trầm cảm có thể bị nhầm lẫn với những dấu hiệu của tuổi dậy thì như cảm thấy cô độc và hay nổi nóng. Những sự nhầm lẫn và thiếu hiểu biết này vô tình “bình thường hóa” trầm cảm và làm chậm trễ việc phát hiện cũng như điều trị trầm cảm. Một rào cản khác là những định kiến và tình trạng phân biệt đối xử với người có rối loạn tâm thần, bao gồm rối loạn trầm cảm [7]. Biểu hiện của tình trạng này là việc sử dụng các từ ngữ tiêu cực như “chập mạch”, “lên cơn” để nói về tình trạng bất ổn cảm xúc của người mắc trầm cảm hoặc cho rằng đây là những cá nhân yếu đuối, thất bại. Các rào cản này góp phần làm giảm động lực của các bạn học sinh trên hành trình đương đầu với rối loạn trầm cảm.
Kết
Việc phát hiện và hỗ trợ điều trị trầm cảm cho học sinh tại Việt Nam vẫn còn là một hành trình dài. Ngoài sự nỗ lực của người trong cuộc, gia đình và nhà trường cũng cần trang bị kiến thức để hỗ trợ các bạn, vì khi gặp phải các triệu chứng trầm cảm, nguồn trợ giúp mà học sinh thường tìm đến là những người thân xung quanh [8]. Ngoài ra, ở quy mô rộng lớn hơn, giải quyết trầm cảm là câu chuyện cần sự góp sức từ nhiều phía, bao gồm các cơ quan ban ngành, tổ chức, và toàn xã hội.
Reference
1. American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). https://doi.org/10.1176/appi.books.9780890425596
2. Dang, H.-M., Lam, T. T., Dao, A., & Weiss, B. (2020). Mental health literacy at the public health level in low and middle income countries: An exploratory mixed methods study in Vietnam. PloS one, 15(12), e0244573-e0244573. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0244573
3. Le, M. T. H. M. P. H., Nguyen, H. T. P. D., Tran, T. D. M. S., & Fisher, J. R. W. P. D. (2012). Experience of low mood and suicidal behaviors among adolescents in Vietnam: Findings from two national population-based surveys. Journal of adolescent health, 51(4), 339-348. https://doi.org/10.1016/j.jadohealth.2011.12.027
4. Nguyen Thi Khanh, H., Nguyen Thanh, L., Pham Quoc, T., Pham Viet, C., Duong Minh, D., & Le Thi Kim, A. (2020). Suicidal behaviors and depression “among adolescents in Hanoi, Vietnam: A multilevel analysis of data from the Youth Risk Behavior Survey 2019. Health psychology open, 7(2), 205510292095471-2055102920954711. https://doi.org/10.1177/2055102920954711
5. Ngọc, B. (2023, February 7). Đừng đánh con vì kết quả học tập kém. Đồng Nai online. https://baodongnai.com.vn/bandoc/202302/dung-danh-con-vi-ket-qua-hoc-tap-kem-3156041/
6. Nguyen, T. (2022, April 22). Bệnh thành tích vẫn đè nặng giáo dục. Thanh Niên. https://thanhnien.vn/benh-thanh-tich-van-de-nang-giao-duc-1851451043.htm
7. Ta, T. M. T., Zieger, A., Schomerus, G., Cao, T. D., Dettling, M., Do, X. T., Mungee, A., Diefenbacher, A., Angermeyer, M. C., & Hahn, E. (2016). Influence of urbanity on perception of mental illness stigma: A population based study in urban and rural Hanoi, Vietnam. International journal of social psychiatry, 62(8), 685-695. https://doi.org/10.1177/0020764016670430
8. Thai, T. T., Cao, P. L. T., Kim, L. X., Tran, D. P., Bui, M. B., & Bui, H. H. T. (2020). The effect of adverse childhood experiences on depression, psychological distress and suicidal thought in Vietnamese adolescents: Findings from multiple cross-sectional studies. Asian journal of psychiatry, 53, 102134-102134. https://doi.org/10.1016/j.ajp.2020.102134
9. Thai, T. T., Vu, N. L. L. T., & Bui, H. H. T. (2020). Mental health literacy and help-seeking preferences in high school students in Ho Chi Minh city, Vietnam. School mental health, 12(2), 378-387. https://doi.org/10.1007/s12310-019-09358-6
10. Tran, Q. A., Le, V. T. H., & Nguyen, T. H. D. (2020). Depressive symptoms and suicidal ideation among Vietnamese students aged 13–17: Results from a cross-sectional study throughout four geographical regions of Vietnam. Health psychology open, 7(2), 205510292097325-2055102920973253. https://doi.org/10.1177/2055102920973253
11. Wichstrom, L. (1999). The emergence of gender difference in depressed mood during adolescence: The role of intensified gender socialization. Developmental psychology, 35(1), 232-245. https://doi.org/10.1037/0012-1649.35.1.232