Tổng quan về rối loạn sử dụng chất
Rối loạn sử dụng chất là một thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng sử dụng một hoặc nhiều loại chất gây nghiện (như rượu, ma túy, thuốc lá) một cách bất thường và gây hại cho người sử dụng [1]. Một người có rối loạn sử dụng chất sẽ tiêu thụ chất một cách không kiểm soát, dẫn đến hậu quả tiêu cực trong cuộc sống cá nhân, xã hội, và công việc. Theo Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (DSM-5) của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, có 4 nhóm tiêu chí chính để đánh giá một người sử dụng chất có bị rối loạn sử dụng chất hay không, bao gồm: lệ thuộc chất, sử dụng chất ngay cả khi mang lại hậu quả nghiêm trọng, có những vấn đề xã hội, và suy giảm khả năng kiểm soát bản thân. Theo DSM-5, hiện tượng “nghiện” chỉ mức độ nặng nhất của rối loạn sử dụng chất.
Trong 4 nhóm tiêu chí chẩn đoán rối loạn sử dụng chất, nhóm lệ thuộc chất bao gồm việc người sử dụng cần lượng chất ngày càng nhiều để đạt cảm giác thỏa mãn, hoặc hiệu quả của chất giảm dần theo thời gian, và gặp triệu chứng cai nghiện như buồn nôn, đau đầu khi ngừng sử dụng. Nhóm sử dụng chất dù mang lại hậu quả nghiêm trọng bao gồm việc tiếp tục sử dụng chất dù biết gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hoặc trong tình huống nguy hiểm như lái xe khi say rượu. Nhóm vấn đề xã hội bao gồm việc sử dụng chất ảnh hưởng tiêu cực đến công việc hoặc học tập, gây giảm hiệu suất, nghỉ làm/học thường xuyên, xung đột với gia đình, bạn bè, hoặc mất mối quan hệ quan trọng. Nhóm suy giảm khả năng kiểm soát bản thân thể hiện qua việc người sử dụng chất nhiều hơn hoặc lâu hơn dự định, hoặc không thể giảm/ngừng sử dụng chất dù đã cố gắng nhiều lần.
Việc lạm dụng chất kích thích dẫn đến nhiều hệ lụy chung như suy giảm về sức khỏe, tăng nguy cơ mắc bệnh (thậm chí dẫn đến tử vong), suy giảm về khả năng nhận thức, tăng nguy cơ mắc cái rối loạn tâm lý khác (như lo âu, trầm cảm, loạn thần,…) [2, 7]. Ngoài ra, đối với thanh thiếu niên, rối loạn sử dụng chất có thể làm sa sút năng lượng học tập, khiến tinh thần uể oải, ảnh hưởng đến cuộc sống thường ngày. Nguy hiểm nhất, lạm dụng chất ở thanh thiếu niên làm gia tăng hành vi bạo lực, thậm chí tăng nguy cơ phạm tội như trộm cắp, trấn lột, hay giết người [2].
Thực trạng sử dụng một số chất kích thích ở thanh thiếu niên Việt Nam
Hiện nay, mặc dù có nhiều báo cáo về tình trạng sử dụng chất kích thích nhưng vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể nào về mức độ rối loạn sử dụng chất ở thanh thiếu niên tại Việt Nam. Về vấn đề sử dụng chất, các báo cáo thường tập trung vào những chất gây nghiện phổ biến ở thanh thiếu niên Việt Nam như rượu bia hoặc đồ uống có cồn, thuốc lá (nicotine), thuốc lá điện tử, cần sa.
Đối với việc sử dụng rượu, bia, tình trạng này ở thanh thiếu niên đang tăng rất nhanh với 43,8% học sinh nam và 37,7% học sinh nữ đã uống rượu bia [2]. Một cuộc điều tra toàn quốc năm 2013 đối với học sinh lớp 8-12 quốc cho thấy 33% học sinh nam và 18% học sinh nữ đã tiêu thụ ít nhất một đơn vị cồn trong 30 ngày qua. Đáng chú ý, 49% học sinh nam và 38% học sinh nữ trong nhóm này đã uống cốc đầu tiên trước năm 14 tuổi, và 31% học sinh nam và 15% học sinh nữ đã từng uống đến mức say ít nhất một lần. Theo Điều tra quốc gia vị thành niên Việt Nam năm 2009, có đến 20,8% nam vị thành niên gặp chấn thương phải nghỉ học hoặc nghỉ lao động vì lái xe sau khi uống rượu bia [2].
Đối với thuốc lá, mặc dù độ tuổi bắt đầu sử dụng đang có xu hướng trẻ hóa, tuy nhiên tỉ lệ thanh thiếu niên từ 13-17 tuổi sử dụng thuốc lá đã giảm qua các năm, từ 5,36% năm 2013 xuống 2,78% vào năm 2019 [2]. Ngoài ra, tại thành phố, đặc biệt với nhóm có mức sống khá, thanh thiếu niên có thực trạng sử dụng các sản phẩm thuốc lá mới như thuốc lá điện tử hay thuốc lá nung nóng với tỉ lệ khá cao. Điều tra của Bộ Y tế năm 2019 cho thấy 2,6% học sinh cả nước ở độ tuổi 13-17 đã sử dụng thuốc lá điện tử, và con số này là 3,4% ở học sinh thành thị [3]. Theo một nghiên cứu tại Hà Nội năm 2020, tỉ lệ học sinh THPT đang sử dụng thuốc lá điện tử là 12,6% [2].

(Ảnh: alexas_fotos@pixabay)
Một vấn đề đáng quan tâm nữa chính là vấn đề sử dụng trái phép chất ma túy (như heroin hay cần sa) của thanh thiếu niên tại Việt Nam. Thống kê cho thấy đến tháng 9/2023, có trên 81 nghìn người trẻ (độ tuổi từ 16-30 tuổi) nghiện và sử dụng ma túy trái phép, chiếm khoảng 38% tổng số người sử dụng trái phép ma túy trên cả nước [4]. Hơn nữa, thống kê đến tháng 1/2024 cho thấy khoảng 60% số người bắt đầu sử dụng ma túy trong độ tuổi từ 15-25, thậm chí có nhiều học sinh đã bắt đầu ở độ tuổi 13-15 [5].

Lạm dụng chất kích thích có thể gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho thanh thiếu niên
(Ảnh: geralt@pixabay)
Nguyên nhân sử dụng chất và nguy cơ rối loạn sử dụng chất của thanh thiếu niên
Có nhiều nguyên nhân sử dụng chất và nguy cơ rối loạn sử dụng chất ở thanh thiếu niên, bao gồm cả tâm lý cá nhân hay ảnh hưởng từ gia đình, bạn bè, và xã hội. Nghiên cứu về tâm lý của 2637 thanh thiếu niên ở Mỹ khi tìm đến việc sử dụng chất cho thấy nguyên do bắt nguồn từ 5 tâm lý chính: được mọi người yêu thích, đối phó với căng thẳng, tìm kiếm cảm giác thỏa mãn, tìm kiếm cảm hứng sáng tạo, tính gây hấn [8]. Học sinh sử dụng chất thường xuyên thường để đối phó với căng thẳng hoặc tìm kiếm cảm giác thỏa mãn, còn những học sinh sử dụng chất không thường xuyên cho biết lý do sử dụng thường để kết nối hoặc tìm cảm hứng sáng tạo.
Nghiên cứu về yếu tố tâm lý xã hội cho thấy bạn bè và gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi sử dụng chất kích thích. Ảnh hưởng này có thể là ảnh hưởng trực tiếp, như việc rủ rê, gọi mời, hoặc ảnh hưởng gián tiếp, như nhận thức về việc sử dụng chất có được chấp nhận hay không. Ngoài ra, việc thiếu kết nối trong môi trường học cũng như sống trong khu vực sống không ổn định cũng góp phần làm tăng nguy cơ sử dụng chất ở thanh thiếu niên [9].
Đối với vấn đề rối loạn sử dụng chất ở thanh thiếu niên, tổng quan nghiên cứu gần đây cũng cho thấy các nguy cơ về mặt cá nhân, gia đình, và cộng đồng [10, 11]. Về mặt cá nhân, các yếu tố nguy cơ được xác định là tâm lý bốc đồng, nổi loạn, khả năng quản lý cảm xúc kém, có các rối loạn về tâm thần hoặc hành vi, và đặc biệt là có tuổi thơ bất hạnh với nhiều trải nghiệm cực đoan. Về mặt gia đình, một yếu tố đặc biệt tăng nguy cơ lạm dụng chất ở thanh thiếu niên là ba mẹ hay người thân trong gia đình cũng đang sử dụng chất kích thích. Về mặt cộng đồng, có bạn bè lạm dụng chất làm tăng nguy cơ thanh thiếu niên lạm dụng chất. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng xác định một vài yếu tố làm giảm nguy cơ lạm dụng chất ở thanh thiếu niên như tính cách tích cực, chánh niệm (mindfulness), tính kết nối cao với trường lớp, bản thân thanh thiếu niên và ba mẹ có nhận thức đúng đắn về lạm dụng chất.
Dấu hiệu nhận biết và hậu quả của việc lạm dụng chất ở thanh thiếu niên
Đối với học sinh, việc lạm dụng chất gây nghiện có một số dấu hiện điển hình liên quan đến sự thay đổi hành vi không rõ nguyên do đối với trường lớp, gia đình, và bạn bè [2]. Thanh thiếu niên lạm dụng chất gây nghiện có thể bắt đầu nghỉ học nhiều hơn, ít quan tâm điểm số và hoạt động ở trường hơn, điểm số tụt giảm hơn bình thường. Ngoài ra, những học sinh này có thể có nhu cầu kiếm thêm tiền không giải thích được. Một vài dấu hiệu khác có thể kể đến như không quan đến vệ sinh hoặc ngoại hình như bình thường, suy giảm về năng lượng và sức khỏe, xuất hiện các triệu chứng như tăng cảm giác thèm ăn, kém tập trung, trí nhớ kém, mắt đỏ, phản ứng chậm, dễ hoang tưởng [6].
Giải pháp phòng ngừa rối loạn sử dụng chất ở thanh thiếu niên
Việc đối phó với hành vi lạm dụng chất ở thanh thiếu niên đòi hỏi sự phối hợp của cả cá nhân, gia đình, nhà trường, và xã hội. Đối với thanh thiếu niên đã có rối loạn sử dụng chất, việc điều trị cần được cá nhân hóa tùy theo mức độ nghiêm trọng và hoàn cảnh riêng của từng thanh thiếu niên [12]. Hiện nay, trên thế giới, nhiều mô hình hay chương trình nhắm tới nhiều mức độ khác nhau đã được phát triển và cho thấy hiệu quả trong điều trị mà Việt Nam cũng có thể tham khảo và áp dụng. Giải pháp ở mức độ cá nhân có thể bao gồm những chiến thuật nhằm xác định và điều chỉnh những vấn đề trong suy nghĩ, hành vi, cảm xúc, và mong muốn trong việc lạm chất của thanh thiếu niên [13]. Ở mức độ gia đình, có những chương trình trị liệu hiệu quả với việc thúc đẩy mối quan hệ gia đình tích cực, thúc đẩy khả năng tự kiểm soát, khả năng kiểm soát hành vi, khả năng đối phó với căng thẳng của các thành viên trong gia đình. Các giải pháp này nên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của chuyên gia tâm lý để đạt hiệu quả cao nhất, vì vậy việc tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp ngay khi phát hiện vấn đề là cực kì cần thiết’.
Nhà trường cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đối phó với rối loạn sử dụng chất ở thanh thiếu niên. Các khuyến nghị đối với nhà trường được đưa ra bao gồm việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức các hoạt động, sinh hoạt chuyên đề về việc lạm dụng chất, cũng như có sự phối hợp với cố vấn chuyên môn, giáo viên, nhân viên y tế của nhà trường. Ngoài ra, đối với thanh thiếu niên có nguy cơ rối loạn sử dụng chất, các giải pháp can thiệp sớm có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của vấn đề [12]. Vì vậy, nhà trường nên có hoạt động sàng lọc hành vi lạm dụng chất kích thích tại các môi trường như trường học và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe hoặc các can thiệp ngắn hạn như tư vấn tâm lý cho thanh thiếu niên đang sử dụng chất kích thích.
Tài liệu tham khảo
1. Diagnostic and statistical manual of mental disorders : DSM-5. (5th ed.). (2013). American Psychiatric Association.
2. Cổng thông tin điện tử Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sức khỏe sinh sản; Sức khỏe tâm thần và phòng chống tác hại của chất gây nghiện. moet.gov.vn/content/vanban/Lists/VBDH/Attachments/3584/hoc-phan-5full16012024-3173527.pdf#page=204.10
3. Đài truyền hình Việt Nam. (2021). 2,6% học sinh 13-17 tuổi hút thuốc lá điện tử https://vtv.vn/giao-duc/26-hoc-sinh-13-17-tuoi-hut-thuoc-la-dien-tu-20210604001254199.htm
4. Trung Hưng. (2023). Tình trạng sử dụng trái phép ma túy có xu hướng gia tăng và ngày càng trẻ hóa. Báo Nhân Dân. https://nhandan.vn/tinh-trang-su-dung-trai-phep-ma-tuy-co-xu-huong-gia-tang-va-ngay-cang-tre-hoa-post781453.html \
5. Hoàng Giang. (2024). Khoảng 60% người sử dụng ma túy lần đầu ở Việt Nam từ 15 đến 25 tuổi. Báo Tiếng Chuông. https://tiengchuong.chinhphu.vn/khoang-60-nguoi-su-dung-ma-tuy-lan-dau-o-viet-nam-tu-15-den-25-tuoi-113240125151458755.htm
6. Minh Hải. (2023). Báo động tình trạng học sinh sử dụng chất gây nghiện. Báo Thanh Niên. https://thanhnien.vn/bao-dong-tinh-trang-hoc-sinh-su-dung-chat-gay-nghien-185230327130153712.htm
7. Hamidullah, S., Thorpe, H. H. A., Frie, J. A., Mccurdy, R. D., & Khokhar, J. Y. (2020). Adolescent Substance Use and the Brain: Behavioral, Cognitive and Neuroimaging Correlates. Frontiers in Human Neuroscience, 14, 298–298. https://doi.org/10.3389/fnhum.2020.00298
8. Novacek, J., Raskin, R., & Hogan, R. (1991). Why do adolescents use drugs? Age, sex, and user differences. Journal of youth and adolescence, 20(5), 475-492.
9. Trucco, E. M. (2020). A review of psychosocial factors linked to adolescent substance use. Pharmacology, Biochemistry and Behavior, 196, 172969–172969. https://doi.org/10.1016/j.pbb.2020.172969
10. Nawi, A. M., Ismail, R., Ibrahim, F., Hassan, M. R., Manaf, M. R. A., Amit, N., Ibrahim, N., & Shafurdin, N. S. (2021). Risk and protective factors of drug abuse among adolescents: a systematic review. BMC Public Health, 21(1), 2088–2088. https://doi.org/10.1186/s12889-021-11906-2
11. Thomasius, R., Paschke, K., & Arnaud, N. (2022). Substance Use Disorders in Children and Adolescents. Deutsches Ärzteblatt International, 119(Forthcoming), 440–450. https://doi.org/10.3238/arztebl.m2022.0122
12. Substance Abuse and Mental Health Services Administration (US); Office of the Surgeon General (US). Facing Addiction in America: The Surgeon General’s Report on Alcohol, Drugs, and Health [Internet]. Washington (DC): US Department of Health and Human Services; 2016 Nov. Chapter 4, Early Intervention, Treatment, And Management Of Substance Use Disorders. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK424859/
13. Fadus, M. C., Squeglia, L. M., Valadez, E. A., Tomko, R. L., Bryant, B. E., & Gray, K. M. (2019). Adolescent Substance Use Disorder Treatment: an Update on Evidence-Based Strategies. Current Psychiatry Reports, 21(10), 96–10. https://doi.org/10.1007/s11920-019-1086-0