Rối loạn ăn uống (eating disorder) thường được nhận biết ở tình trạng thay đổi thói quen ăn uống theo xu hướng không lành mạnh, ảnh hưởng tới sức khoẻ và sinh hoạt đời sống của người mắc chứng rối loạn. Có nhiều chứng rối loạn ăn uống khác nhau, trong đó có ba loại phổ biến nhất là Chán ăn tâm thần (Anorexia nervosa), Háu ăn tâm thần (Bulimia nervosa) và Chứng ăn uống vô độ (Binge-eating disorder). Thông tin chi tiết hơn về triệu chứng, các yếu tố nguy cơ và phương pháp điều trị đã được đề cập kỹ tại bài viết Tổng quan về rối loạn ăn uống, bài viết này sẽ tập trung về tình trạng rối loạn ăn uống ở thanh thiếu niên Việt và độ phổ biến của từng yếu tố nguy cơ dẫn tới các chứng rối loạn này ở Việt Nam.
Hiện tại, những nghiên cứu về các chứng rối loạn ăn uống ở độ tuổi thanh thiếu niên Việt Nam còn khan hiếm, tuy vậy các nghiên cứu trên học sinh trung học phổ thông cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng và béo phì ở độ tuổi thanh thiếu niên Việt Nam không quá cao, khoảng từ 4-18% [3, 4]. Tuy vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn về các chứng rối loạn ăn uống ở Việt Nam vẫn rất cần thiết để quan sát sự thay đổi về số liệu, độ phổ biến của các chứng rối loạn, cũng như đào sâu hơn vào những yếu tố gây ảnh hưởng tới rối loạn ăn uống đặc thù hơn ở Việt Nam.
Theo nghiên cứu của Đoàn Duy Tân và cộng sự năm 2020, những yếu tố ảnh hưởng tới rối loạn ăn uống ở các bạn học sinh trung học phổ thông tham gia nghiên cứu bao gồm giới tính, nhận xét khách quan từ người khác, căng thẳng trong cuộc sống, cảm nhận hình ảnh cơ thể bản thân, và những vấn đề tâm lý cá nhân. Về yếu tố giới tính, học sinh nữ có khả năng cao mắc các chứng rối loạn ăn uống hơn học sinh nam. Về yếu tố ảnh hưởng từ nhận xét của người khác, những học sinh được người khác đánh giá là thừa cân có tỉ lệ mắc rối loạn ăn uống cao hơn 1,4 lần những bạn được người khác đánh giá là gầy. Về ảnh hưởng của căng thẳng trong cuộc sống, khả năng mắc các chứng rối loạn ăn uống tăng gấp 1,7 lần ở những bạn học sinh căng thẳng [5].
Đối với những yếu tố cá nhân hơn, cụ thể là cảm nhận hình ảnh cơ thể của bản thân, những học sinh có ý thức về hình ảnh cơ thể của bản thân nhiều hơn có nguy cơ mắc rối loạn ăn uống cao hơn 1,2 lần. Về những vấn đề tâm lý cá nhân, những bạn học sinh trầm cảm có tỉ lệ mắc rối loạn ăn uống cao hơn 1,5 lần so với những bạn không trầm cảm. Tỉ lệ mắc rối loạn ăn uống cũng cao hơn 1,5 lần ở những bạn học sinh mắc chứng lo âu [5].
Tổng hợp lại những yếu tố nguy cơ trên, vấn đề tâm lý cá nhân là yếu tố nguy cơ cao nhất gây ảnh hưởng tới khả năng mắc các chứng rối loạn ăn uống ở độ tuổi thanh thiếu niên Việt Nam. Điều này cũng đã được nhấn mạnh bởi kết quả của các nghiên cứu quốc tế trong quá khứ. Nghiên cứu của Wan Ying Gan năm 2018 tại Malaysia đã cho thấy được liên hệ giữa trầm cảm và chứng rối loạn ăn uống vô độ. Các nghiên cứu trên sinh viên đại học cũng cho ra được mối tương quan giữa căng thẳng, lo âu, trầm cảm với nguy cơ mắc các chứng rối loạn ăn uống [2, 4]. Tuy vậy, mức độ ảnh hưởng của cảm nhận cơ thể cá nhân, hay những yếu tố về môi trường như căng thẳng trong cuộc sống và nhận xét của người ngoài cũng rất đáng chú ý, từ đó cho thấy mức độ cần thiết của việc đẩy lùi từng yếu tố ảnh hưởng một.

Cảm nhận về hình ảnh cơ thể và các vấn đề tâm lý gia tăng nguy cơ mắc rối loạn ăn uống
(Ảnh: Viewpoint Center)
Nhận thức được những yếu tố nguy cơ trên, việc đẩy lùi nguy cơ mắc các chứng rối loạn ăn uống không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của học sinh mắc phải mà còn nằm ở sự giúp đỡ và chăm sóc của những người xung quanh, nhằm vào cả các yếu tố nguy cơ nằm ở cá nhân và nằm ở môi trường của bạn học sinh đó.
Bản thân bạn học sinh mắc chứng rối loạn có thể luyện tập thực hành các phương pháp suy nghĩ tích cực về bản thân và xây dựng một góc nhìn bao dung với hình ảnh cơ thể mình. Từ đó, bạn học sinh có thể tham khảo, tìm hiểu và dần dần xây dựng những thói quen ăn uống và lối sống lành mạnh hơn, cân bằng giữa học tập và nghỉ ngơi để tránh căng thẳng. Gia đình, thầy cô, bạn bè và nhà trường đóng vai trò rất quan trọng trong việc lắng nghe những tâm sự của bạn học sinh, đồng thời tuyên truyền về việc yêu thương cơ thể mình và giảm thiểu những phán xét tiêu cực về cơ thể của người khác.
Đối với những vấn đề tâm lý cá nhân, theo viện sức khoẻ bang Mayo, Hoa Kỳ, người mắc các chứng rối loạn về sức khoẻ tâm thần như trầm cảm và lo âu nên tìm cho mình sự hỗ trợ về chuyên môn cần thiết. Các chuyên gia và bác sĩ tâm thần sẽ sử dụng linh hoạt các phương pháp như tham vấn trị liệu, sử dụng thuốc và các phương pháp theo dõi y tế tuỳ vào trường hợp của người mắc chứng rối loạn. Ở Việt Nam hiện nay, các đường dây nóng, phòng khám tâm lý và khoa tâm thần tại các bệnh viện trong nước đã và đang có nhiều phương án điều trị khác nhau cho trầm cảm và lo âu, vì vậy, bạn học sinh mắc chứng rối loạn có thể chủ động tìm hiểu và liên lạc tới những cơ sở này. Việc phụ huynh, giáo viên và nhà trường được trang bị những nguồn uy tín có thể giúp đỡ học sinh mắc các chứng rối loạn về sức khoẻ tâm thần là điều cần thiết.

Sự yêu thương và đồng hành đóng góp rất lớn trong quá trình xây dựng thói quen lành mạnh (Ảnh: Unsplash)
Tài liệu tham khảo
1. Gan, W. Y., Mohamad, N., & Law, L. S. (2018). Factors associated with binge eating behavior among Malaysian adolescents. Nutrients, 10(1), 66.
2. Ko, N., Tam, D. M., Viet, N. K., Scheib, P., Wirsching, M., & Zeeck, A. (2015). Disordered eating behaviors in university students in Hanoi, Vietnam. Journal of eating disorders, 3, 1-7.
3. Mai, T. M. T., Pham, N. O., Tran, T. M. H., Baker, P., Gallegos, D., Do, T. N. D., … & Jordan, S. J. (2020). The double burden of malnutrition in Vietnamese school-aged children and adolescents: a rapid shift over a decade in Ho Chi Minh City. European Journal of Clinical Nutrition, 74(10), 1448-1456.
4. Pengpid, S., & Peltzer, K. (2018). Risk of disordered eating attitudes and its relation to mental health among university students in ASEAN. Eating and Weight Disorders-Studies on Anorexia, Bulimia and Obesity, 23, 349-355.
5. Tân, Đ. D., Nguyên, N. T., & Bích, N. N. (2020). Rối loạn ăn uống và các yếu tố liên quan ở học sinh trường Trung học phổ thông số 1 Phù Cát, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Tạp chí Y học Dự phòng, 30(8), 133-139.