Hành vi tự hại ở học sinh Việt Nam

Lưu ý: Bài viết có đề cập về việc tự hại và tự sát. Vui lòng cân nhắc trước khi đọc.

Những nỗi đau bên ngoài

Những vết thương ngoài da có khả năng nói lên nhiều câu chuyện đằng sau chúng. Chẳng hạn như một vết xước trên tay có thể hé lộ khoảnh khắc sơ suất của chủ nhân nó, hay một vết bỏng nhỏ là minh chứng cho tâm huyết trọn vẹn được đặt trong một món ăn. Nhưng đôi lúc những vết thương ấy ẩn giấu những câu chuyện đau đớn hơn đằng sau nó, thay cho những lời than thở uất nghẹn không nói được thành lời.

Theo định nghĩa của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ vào năm 2018, tự làm hại được định nghĩa là khi một cá nhân cố tình có những hành vi tự huỷ hoại các bộ phận hoặc các vùng nhất định trên cơ thể mình. Các hành vi tự làm hại thường bao gồm, và không giới hạn ở việc tự cào cấu, cắt, rạch, đốt, đấm hoặc sử dụng các vật dụng khác nhau để đánh, đập vào cơ thể mình. Những hành vi tự làm hại không bắt nguồn từ ý định tự sát, nhưng các chấn thương gây ra bởi những hành vi này vẫn đủ để gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới người tự làm hại [1].

Kết quả khảo sát của trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2022 cho thấy có khoảng 37.4% trẻ vị thành niên ở 8 vùng đô thị miền Nam Việt Nam có nguy cơ tự huỷ hoại bản thân, với 6.1% trong số đó cố ý thực hiện các hành vi tự làm mình bị thương khoảng 1 tới 4 lần mỗi năm [6]. Đáng chú ý, những nghiên cứu chuyên sâu về hành vi tự làm hại ở độ tuổi học sinh Việt Nam vẫn còn khan hiếm, cho thấy rằng những con số này vẫn chỉ hé lộ một phần bức tranh toàn cảnh về thực trạng này tại Việt Nam. Từ đó, việc tiếp cận thông tin và am hiểu về hành vi tự hại, nguyên nhân và cách xử lý là vô cùng quan trọng để mỗi cá nhân có thể bảo đảm an toàn cho chính bản thân mình và trao sự hỗ trợ cần thiết cho những người xung quanh.

Những nỗi đau bên trong

Đối với một bạn học sinh tự hại, việc tự làm mình đau là giải pháp để giúp bạn học sinh ấy đối phó với những nỗi đau bên trong mình. Nghiên cứu của thạc sĩ Mai Mỹ Hạnh (2024) về các yếu tổ ảnh hưởng tới hành vi tự huỷ hoại của lứa tuổi vị thành niên ở các đô thị phía Nam cho thấy 37.1% học sinh tự huỷ hoại do thất vọng về bản thân, 36.2% muốn nỗi đau của mình được gia đình thấu hiểu, 25.8% huỷ hoại bản thân nhằm trút cơn giận từ người khác, 21.6% tự hại do chán nản và cô đơn. Việc làm đau mình khiến bạn học sinh thấy thoải mái hơn, giúp bạn phóng chiếu cảm xúc tiêu cực ra bên ngoài. Với một số trường hợp, bạn học sinh tự hại để trừng phạt hoặc trút giận lên bản thân mình. Và quan trọng hơn tất thảy, hầu hết trường hợp tự hại đều muốn nỗi đau của các bạn được nhìn thấy, được ghi nhận, và được giúp đỡ [5].

 Đặc biệt, tới 57.7% học sinh trong nghiên cứu cho thấy “tôi không rõ vì sao, chỉ muốn làm vậy”, cho thấy rằng đa số các tự hại không hề có chủ đích. Chúng có thể xuất phát từ những suy nghĩ và phản ứng tự động, bị chi phối bởi những chứng rối loạn về tâm lý khác như lo âu, tự kỉ trầm cảm, rối loạn lưỡng cực và một số chứng rối loạn nhân cách [2, 3, 8].

Trong một nghiên cứu sâu hơn về cảm xúc của những thanh thiếu niên tự huỷ hoại bản thân, kết quả của thạc sĩ Mai Mỹ Hạnh (2022) và cộng sự cho thấy có nhiều tầng cảm xúc tham gia vào từng giai đoạn của hành vi tự hại. Cụ thể, trước khi thực hiện hành vi tự hại, thanh thiếu niêni thường cảm thấy buồn bã, tuy nhiên cảm xúc tiêu cực giảm dần và cảm xúc thoải mái, thoả mãn lại tăng trong quá trình thực hiện hành vi tự hại. Sau khi thực hiện hành vi tự hại, phần lớn học sinh tự hại cảm thấy đau đớn và tội lỗi [6]. Có thể thấy rằng thực hiện hành vi tự hại là một quá trình phức tạp với nhiều cảm xúc xen lẫn nhau, bắt đầu bằng cảm giác buồn bã và kết thúc bằng sự đau khổ dằn vặt. Mỗi cú đánh, mỗi vết cào và vết bỏng đều là một lời cầu cứu thầm lặng cho những nỗi đau lớn hơn thét gào bên trong bạn học sinh, để nhận được cánh tay vực dậy từ bất kỳ ai chú ý và hiểu được.

Chữa lành vết thương bằng sự đồng hành và bao dung

Dựa trên những khuyến nghị của cơ sở y tế bang Cleveland, Hoa Kỳ, sau đây là những gì nên làm trong trường hợp một học sinh có hành vi tự hại.

Nếu bản thân bạn là học sinh có mong muốn thực hiện hành vi tự hại, bạn có thể dành thời gian tìm hiểu về hành vi tự hại của bản thân và học cách nhận biết các yếu tố kịch hoạt tự hại để am hiểu hơn về những hành vi của mình. Đồng thời, việc chăm sóc bản thân và điều chỉnh lối sống cũng vô cùng quan trọng để đầy lùi những yếu tố nguy cơ. Luyện tập những thói quen và phương pháp để ghi nhận bản thân, tha thứ cho chính mình và tự khẳng định cũng sẽ giúp bạn có được một cái nhìn bao dung và ấm áp hơn về bản thân và những gì mình đã phải trải qua.

Quan trọng hơn nữa, hãy tìm sự trợ giúp ở cha mẹ, bạn bè, thầy cô hoặc những người mà bạn tin tưởng. Họ sẽ cho bạn sự lắng nghe, an ủi, động viên, và hướng bạn tới các chuyên gia tâm lý như chuyên viên tham vấn hoặc bác sĩ tâm thần nếu trường hợp của bạn cần những sự trợ giúp chuyên sâu hơn. Bản thân bạn cũng có thể tìm hiểu thêm và chủ độc kết nối với các phòng khám tâm lý, các cơ sở tư vấn tâm lý uy tín, và các đường dây nóng hỗ trợ về tinh thần. Đây đều là các cơ sở và dịch vụ được vận hành bởi những người có chuyên môn tâm lý từ thạc sĩ trở lên, vì vậy họ sẽ có đủ kỹ năng và kiến thức để cùng bạn làm việc với suy nghĩ và hành vi tự hại của mình.

Tìm sự hỗ trợ là điều cần thiết cho học sinh có ý định tự hại (Ảnh: Healthline)

Cùng với đó, cha mẹ, giáo viên và mỗi học sinh cần phải được trang bị những kỹ năng sơ cứu cơ bản để xử lý vết thương của người tự hại. Sau đó, họ có thể lắng nghe câu chuyện của người tự hại mà không có sự phán xét, đồng thời cho người tự hại một chỗ dựa về tinh thần để được trút bầu tâm sự và được động viên. Việc tìm hiểu và trang bị cho mình những nguồn đáng tin cậy để liên hệ giúp đỡ người tự hại cũng vô cùng quan trọng, cụ thể như các đường dây nóng khẩn cấp, các chuyên gia tâm lý hoặc bệnh viên. Sự trợ giúp của bạn sẽ khiến cho hành trình chữa lành của người tự hại trở nên dễ dàng và suôn sẻ hơn phần nào. Bài viết Trợ giúp và tự ứng phó đối với hành vi tự hại sẽ cung cấp thêm thông tin chi tiết về các cách xử lí hành vi tự hại, đối với cả bản thân người tự hại lẫn người muốn giúp đỡ họ.

Tài liệu tham khảo

1. American Psychological Association. (2018). Deliberate Self-harm (DSH). APA Dictionary. https://dictionary.apa.org/deliberate-self-harm

2. Blanchard, A., Chihuri, S., DiGuiseppi, C. G., & Li, G. (2021). Risk of self-harm in children and adults with autism spectrum disorder: a systematic review and meta-analysis. JAMA network open, 4(10), e2130272-e2130272.

3. Castelpietra, G., Knudsen, A. K. S., Agardh, E. E., Armocida, B., Beghi, M., Iburg, K. M., … & Monasta, L. (2022). The burden of mental disorders, substance use disorders and self-harm among young people in Europe, 1990–2019: Findings from the Global Burden of Disease Study 2019. The Lancet Regional Health–Europe, 16.

4. Cleveland Clinic. (n.d). Self-Harm (Non suicidal Self-Injury Disorder). Diseases and Conditions. https://my.clevelandclinic.org/health/diseases/12201-self-harm

5. Hạnh, M. M. (2024). Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tự hủy hoại bản thân của vị thành niên tại các đô thị phía Nam, Việt Nam. Tạp chí Khoa học, 21(1), 71.

6. Hạnh, M. M. (2022). Phân tích cảm xúc của vị thành niên ở đô thị phía Nam, Việt Nam khi thực hiện hành vi tự hủy hoại bản thân. Tạp chí Khoa học, 19(9), 1571.

7. Huân, N. T. (2017). Hành vi tự hủy hoại bản thân của học sinh cuối cấp trung học cơ sở ở nội thành thành phố Hồ Chí Minh.

8. Reichl, C., & Kaess, M. (2021). Self-harm in the context of borderline personality disorder. Current opinion in psychology, 37, 139-144.