Lưu ý: Bài viết có đề cập về hành vi tự sát. Vui lòng cần nhắc trước khi đọc.
Tình hình tự sát trên toàn cầu và tại Việt Nam
Tự sát là hành vi của một người tự kết liễu bản thân. Và hành vi này thường là hệ quả của một hành trình với nhiều tác nhân khác nhau, như nguyên tố xã hội, tâm lý, và sinh học [15]. Nghiên cứu toàn cầu gần đây cho thấy cứ khoảng 100 000 người từ lứa tuổi 15 đến 29 thì có 3,8 người tự sát [7]. Tự sát cũng là một bốn nguyên do chính gây tử vong với nhóm tuổi trên.
Ở Việt Nam, tuy rằng tổng số ca tự sát (7.5/100000) thấp hơn số liệu toàn cầu (9/100000) [16, 17], tự sát ở giới trẻ Việt Nam lại cao hơn so với các nước lân cận. Theo một khảo sát về ý định tự sát ở học sinh, Việt Nam (16.9%) và Phillipines (17%) là hai quốc gia có tỉ lệ về ý định tự sát ở lứa tuổi vị thành niên cao nhất trong các nước ASEAN [14]. Năm 2022, Viện Sức Khỏe tâm thần bệnh viện Bạch Mai thống kê khoảng 11% trong số 6407 học sinh có ý định sát [11]. Có thể thấy, tự sát ở giới trẻ là một vấn đề nổi cộm và cần xã hội quan tâm.
Gỉa thuyết về hành trình tự sát
Tác giả Maris cho rằng “Tự sát không chỉ đơn giản là một phản ứng với một cơn khủng hoảng nhất thời mà tự sát còn liên quan đến cả một đời người” [10]. Hiện nay, một số giả thuyết cho rằng, để một người hoàn toàn kết thúc cuộc đời, họ phải trải qua một quá trình bao gồm ba bước như: suy nghĩ, lên kế hoạch, và thực hiện tự sát [15]. Tuy nhiên, không phải ai có suy nghĩ tự sát cũng lên kế hoạch và thực hiện chúng. Để một cá nhân lựa chọn tiến lên hay lùi lại trong quá trình trên là dựa vào những yếu tố nguy cơ hoặc bảo vệ từ bên trong họ và từ môi trường xung quanh.
Yếu tố nguy cơ
Ở cấp độ cá nhân, giới tính, lạm dụng chất kích thích và các rối loạn tâm thần đều là những yếu tố tăng nguy cơ cho việc thực hiện hành vi tự sát. Yếu tố nguy cơ của hành vi tự sát là những lý do có thể thúc đẩy khả năng xảy ra ở hành vi đó. Nghiên cứu cho thấy, tuy rằng nam thiếu niên báo cáo số ca tự sát cao hơn nữ [5], nữ giới lại có ý định tự sát cao gần như gấp đôi nam giới [4]. Điều này có thể giải thích bởi các biện pháp tự sát có phần bạo lực hơn ở nam giới so với nữ giới và cũng như nam giới ít có xu hướng tìm kiếm sự giúp đỡ từ mọi người xung quanh hơn. Bên cạnh đó, tự sát ở thanh thiếu niên cũng liên quan đến các vấn đề tâm lý như rối loạn cảm xúc và lạm dụng chất. Nghiên cứu ở các trường học tại Việt Nam, Đài Loan, và Trung Quốc đã cho thấy rằng các thanh thiếu niên sử dụng rượu bia và thuốc là thường xuyên có khả năng tự sát và nghĩ về việc tự sát cao hơn các bạn khác [4]. Với những cá nhân có vấn đề về rối loạn cảm xúc, như rối loạn trầm cảm, lạm dụng chất kích thích cũng có thể tăng nguy cơ tự sát hay thậm chí, đóng vai trò quyết định trong hành vi tự sát [13]. Do đó, lạm dụng chất kích thích và rối loạn tâm thần có tính tương tác trong việc gia tăng nguy cơ tự sát ở thanh thiếu niên.
Ở cấp độ gia đình và nhà trường, tiền sử tự sát trong gia đình, xung đột trong các mối quan hệ, và áp lực học hành có thể là những nguyên do tiềm ẩn cho hành vi tự sát của lứa tuổi thanh thiếu niên. Ở khía cạnh gia đình, các thanh thiếu niên có người thân từng tự sát trước đó có khả năng hình thành suy nghĩ về việc tự sát cao gấp 2.41 lần so với các bạn khác [4]. Điều này có thể giải thích bởi các bạn và người thân đều chịu ảnh hưởng do cùng một yếu tố nguy cơ trong môi trường gia đình, ví như xung đột gia đình. Nghiên cứu trên cũng chỉ ra rằng các thanh thiếu niên không sống chung với ba mẹ lại ít có nguy cơ tìm cách tự sát hơn các bạn khác [4]. Điều này cho thấy rằng môi trường gia đình cũng có thể trở thành yếu tố rủi ro cho vấn nạn tự sát ở tuổi thanh thiếu niên. Đồng thời, môi trường học tập căng thẳng hay bạo lực học đường cũng có thể nuôi dưỡng mầm móng rối loạn tâm thần hay rối loạn lo âu và dẫn đến hành vi tự sát ở học sinh [1, 6]. Do đó, sự can thiệp từ gia đình và nhà trường là điều cần thiết trong để đương đầu với những thách thức trong môi trường sinh hoạt của giới trẻ hiện nay.

Yếu tố bảo vệ
Bên cạnh các yếu tố rủi ro, bản thân các thanh thiếu niên, gia đình, và nhà trường cũng có những yếu tố giúp ngăn chặn hành vi tự sát. Trong môi trường gia đình và nhà trường, mối liên kết giữa các bạn với những người xung quanh, như ba mẹ, bạn bè, và thầy cô, sẽ giúp các bạn có thêm sự giúp đỡ vào những lúc khó khăn, từ đó có thể ngăn các bạn tiến thêm một bước trên hành trình tự sát [8]. Đồng thời, các bạn thanh niên có thể rèn luyện các thói quen tốt, hình thành lối sống lành mạnh để bảo vệ bản thân. Như nghiên cứu từng chỉ ra rằng, các bạn có thường đọc sách [3], tham gia hoạt động ngoại khóa [2], có chế độ ăn uống phù hợp [9] sẽ ít có nguy cơ hình thành hành vi tự sát hơn các bạn khác.

Phát hiện những dấu hiệu báo trước việc tự sát
Gia đình và nhà trường có thể chú ý đến những dấu hiệu tự sát ở các thanh thiếu niên và từ đó thực hiện các biện pháp phòng chống phù hợp. Theo Viện Y Tế Quốc Gia ở Hoa Kỳ. sau đây là một số các dấu hiệu ở các thanh thiếu niên có mong muốn tự sát [12]:
- Thường nói về các chủ đề tự sát, cho rằng mình đang trở thành gánh nặng cho người khác, hoặc đề cập những chuyện sai quấy, tủi hận
- Luôn cảm thấy vô vọng, trống rỗng, không có ý nghĩa sinh tồn; buồn, lo âu, dễ kích động, giận dữ; đau đớn về cả tinh thần lẫn thể chất
- Có những hành vi như:
- Lên kế hoạch tự sát
- Chủ động rút lui khỏi các hoạt động xã hội, tạm biệt bạn bè, trao gửi lại các đồ vật quan trọng hoặc lập di chúc
- Tìm kiếm các trải nghiệm kích thích, nguy hiểm đến tính mạng
- Thể hiện thái độ “sáng nắng chiều mưa”
- Tăng hoặc giảm khẩu phần ăn uống đột ngột
- Sử dụng chất kích thích thường xuyên hơn.
Hỗ trợ từ gia đình và nhà trường
Nếu gia đình và thầy cô quan sát thấy những biểu hiện trên của trẻ, hãy ngay lập tức thực hiện 5 bước sau đây:
- Hỏi các bạn trực tiếp rằng liệu các bạn đang có ý định tự sát hay không.
- Thể hiện cho các bạn thấy gia đình/ thầy cô đang ở đây để lắng nghe và hỗ trợ bạn
- Tìm hiểu thông tin về kế hoạch tự sát của bạn nhằm đảm bảo sự an toàn cho các bạn.
- Hỗ trợ và khuyến khích các bạn liên hệ đến các chuyên gia, cơ sở tâm lý tiềm năng.
- Thường xuyên thăm hỏi.
Để tìm hiểu cụ thể hơn về 5 bước trên và danh sách các đường dây/ cơ sở tâm lý, độc giả có thể tìm đọc bài 5 bước hỗ trợ người có ý định tự sát.
Hỗ trợ cho bản thân
Nếu chính bạn đang đối mặt với các cơn khủng hoảng tự sát, bạn có thể tìm một môi trường an toàn để thực hiện các bước sau đây:
- Chia sẻ cảm xúc của bạn với người thân xung quanh và các nhà chyên môn.
- Học cách kiểm soát các triệu chứng liên quan tới tự sát theo hướng dẫn của các nhà chuyên môn.
- Làm những gì bạn thích, như là chơi thể thao, để đánh lạc hướng suy nghĩ.
- Nghĩ đến những điều khiến bạn muốn tồn tại hay những ký ức hạnh phúc trước đó.
- Các bước trên có thể thêm vào kế hoạch bảo vệ an toàn của bạn. Kế hoạch này là một danh sách những điều bạn nên làm khi gặp cơn khủng hoảng tự sát.
Mong bạn hãy nhớ rằng, các suy nghĩ và cảm giác hiện tại chỉ là nhất thời. Và với các bước can thiệp hơp lý, bạn hoàn toàn có thể tự giúp bản thân thoát ra khỏi suy nghĩ đó. Dưới đây là thông tin về một số nguồn hỗ trợ mà bạn có thể liên hệ để tìm sự giúp đỡ:
- Tổng đài 115/ 1900 1267
- Đường dây nóng BlueBlue (1900 9204 – bấm phím 3)
- Đường dây nóng ngày mai (0963061414)
- Danh sách các cơ sở hỗ trợ sức khỏe tâm thần, được liệt kê bởi Đơn vị nghiên cứu lâm sàng đại học Oxford tại Việt Nam – OUCRU.
Tài liệu tham khảo
1. Ang, R. P., & Huan, V. S. (2006). Relationship between academic stress and suicidal ideation: Testing for depression as a mediator using multiple regression. Child psychiatry and human development, 37(2), 133-143. https://doi.org/10.1007/s10578-006-0023-8
2. Armstrong, L. L., & Manion, I. G. (2015). Meaningful youth engagement as a protective factor for youth suicidal ideation. Journal of research on adolescence, 25(1), 20-27. https://doi.org/10.1111/jora.12098
3. Ati, N. A. L., Paraswati, M. D., & Windarwati, H. D. (2021). What are the risk factors and protective factors of suicidal behavior in adolescents? A systematic review. Journal of child and adolescent psychiatric nursing, 34(1), 7-18. https://doi.org/10.1111/jcap.12295
4. Blum, R. M. D. M. P. H. P. D., Sudhinaraset, M. P. D., & Emerson, M. R. (2012). Youth at risk: Suicidal thoughts and attempts in Vietnam, China, and Taiwan. Journal of adolescent health, 50(3), S37-S44. https://doi.org/10.1016/j.jadohealth.2011.12.006
5. Bommersbach, T. J., Rosenheck, R. A., Petrakis, I. L., & Rhee, T. G. (2022). Why are women more likely to attempt suicide than men? Analysis of lifetime suicide attempts among US adults in a nationally representative sample. Journal of affective disorders, 311, 157-164. https://doi.org/10.1016/j.jad.2022.05.096
6. Eunmi, L. (2019). Effects of school violence on depression and suicidal ideation in multicultural adolescents. Iranian journal of public health, 48(2), 262.
7. Glenn, C. R., Kleiman, E. M., Kellerman, J., Pollak, O., Cha, C. B., Esposito, E. C., Porter, A. C., Wyman, P. A., & Boatman, A. E. (2020). Annual research review: A meta‐analytic review of worldwide suicide rates in adolescents. Journal of child psychology and psychiatry, 61(3), 294-308. https://doi.org/10.1111/jcpp.13106
8. Kleiman, E. M., & Liu, R. T. (2013). Social support as a protective factor in suicide: Findings from two nationally representative samples. Journal of affective disorders, 150(2), 540-545. https://doi.org/10.1016/j.jad.2013.01.033
9. Li, X., Chi, G., Taylor, A., Chen, S.-T., Memon, A. R., Zhang, Y., Song, Y., Li, J., Luo, X., & Zou, L. (2021). Lifestyle behaviors and suicide-related behaviors in adolescents: Cross-sectional study using the 2019 YRBS Data. Frontiers in public health, 9, 766972-766972. https://doi.org/10.3389/fpubh.2021.766972
10. Maris, R. W., Berman, A. L., Maltsberger, J. T., & Yufit, R. I. (1992). Assessment and prediction of suicide. This volume is based on a workshop entitled” Assessment and Prediction of Suicide” held at the 1990 annual meeting of the American Association of Suicidology (ASS) in New Orleans, Louisiana.,
11. Ngọc, M. (2022, April 26). Báo động tỷ lệ tự sát trong thanh thiếu niên ngày càng gia tăng. Báo Mới. https://baomoi.com/bao-dong-ty-le-tu-sat-trong-thanh-thieu-nien-ngay-cang-gia-tang-c42428948.epi
12. National Institute of Mental Health (n.d). Warning signs of suicide. https://www.nimh.nih.gov/health/publications/warning-signs-of-suicide
13. Østergaard, M. L. D., Nordentoft, M., & Hjorthøj, C. (2017). Associations between substance use disorders and suicide or suicide attempts in people with mental illness: a Danish nation‐wide, prospective, register‐based study of patients diagnosed with schizophrenia, bipolar disorder, unipolar depression or personality disorder. Addiction (Abingdon, England), 112(7), 1250-1259. https://doi.org/10.1111/add.13788
14. Peltzer, K., & Pengpid, S. (2017). Suicidal ideation and associated factors among students aged 13-15 years in Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) member states, 2007-2013. International journal of psychiatry in clinical practice, 21(3), 201-208. https://doi.org/10.1080/13651501.2017.1301486
15. Sveticic, J., & Leo, D. D. (2012). The hypothesis of a continuum in suicidality: a discussion on its validity and practical implications. Mental Illness, 4(2), 73-78. https://doi.org/10.4081/mi.2012.e15
16. Statista. (2021). Crude suicide rate in Vietnam from 2010 to 2019. https://www.statista.com/statistics/702116/vietnam-crude-suicide-rate/
17. World Health Organization. (2021). Suicide worldwide in 2019. https://www.who.int/publications/i/item/9789240026643