Hiểu về trầm cảm

Trầm cảm là một chứng rối loạn đi kèm với nỗi buồn bã, trống rỗng kéo dài. Người có chứng rối loạn này có thể mang những thay đổi về mặt thể chất và tư duy gây ảnh hưởng tới khả năng sinh hoạt trong cuộc sống [1]. Tuy nhiên, không phải lúc nào cảm giác buồn rầu cũng được cho là rối loạn trầm cảm. Chúng ta có thể buồn vì nghe một bản nhạc, đọc một mẩu truyện hay gặp phải một điều không may nhưng chỉ khi cảm xúc buồn rầu đó kéo dài khoảng hơn hai tuần, chúng ta mới có nguy cơ hình thành rối loạn trầm cảm. Đồng thời, trầm cảm có thể dẫn đến hành vi tự sát mà nỗi buồn thông thường ít khi gây nên. Năm 2023, WHO cho thấy có 280 triệu người trên thế giới đang có chẩn đoán rối loạn trầm cảm [4]. Do đó, trầm cảm được liệt vào một trong những rối loạn tâm thần phổ biến ở trên thế giới.

Các dạng trầm cảm

Có nhiều dạng rối loạn trầm cảm khác nhau [1]. Một số các loại trầm cảm thường gặp là rối loại trầm cảm nặng (Major Depressive Disorder) và rối loạn trầm cảm dai dẳng (Persistent Depressive Disorder).  Các dạng rối loạn trầm cảm thường sẽ khác nhau ở các khía cạnh thời gian và cơ chế gây bệnh. Ví dụ rối loạn tâm lý theo mùa (Seasonal Affective Disorder) có thể gây bệnh vào mùa đông còn rối loạn trầm cảm sau sinh (Postpartum Depression) sẽ xuất hiện sau sinh sản. Bên cạnh sự khác biệt trên, chúng ta cũng có những triệu chứng chung giữa các dạng trầm cảm như sau:

  • Cảm giác buồn, cô đơn, chán nản
  • Thiếu năng lượng
  • Khẩu vị thay đổi
  • Gỉam/ tăng cân đột ngột
  • Mất tập trung
  • Rối loạn giấc ngủ
  • Đánh giá thấp bản thân
  • Có ý định tự sát

Những trải nghiệm với rối loạn trầm cảm có thể sẽ rất khác nhau tùy vào đặc tính cá nhân. Vì thế cũng có khả năng một người có chẩn đoán rối loạn trầm cảm sẽ không có những biểu hiện trên. Nếu bạn nhận thấy bản thân gặp phải những triệu chứng trên, bạn nên tìm gặp chuyên viên tâm lý để có chuẩn đoán chính thức.

Màu sắc u buồn trong thế giới của người trầm cảm (Ảnh: number@pexel)

Trầm cảm đến từ đâu?

Hiện nay, những nguyên nhân cụ thể gây nên các dạng rối loạn trầm cảm vẫn chưa được xác thực. Tuy nhiên, có một số ý kiến cho rằng trầm cảm có liên quan đến cả ba yếu tố về sinh học, tâm lý học, và môi trường sinh sống. Về mặt sinh học, di truyền được nhận biết là một trong những yếu tố rủi ro của rối loạn trầm cảm. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi cha mẹ có chẩn đoán trầm cảm, con của họ có nguy cơ hình thành rối loạn trầm cảm cao hơn từ hai đến ba lần so với các đứa trẻ khác [3]. Tuy nhiên, Cẩm nang Chuẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần phiên bản số 5 cũng từng đề cập rằng dẫu chúng ta có gene di truyền ở trầm cảm, yếu tố ấy chỉ quyết định 40% trong hình thành rối loạn trầm cảm.

 Kèm theo đó, yếu tố về tâm lý, đặc biệt là những bất ổn về mặt cảm xúc (neuroticism), cũng đóng vai trò thúc đẩy cho sự phát triển của gene di truyền đó. Cuối cùng, như một hạt giống cần  môi trường thích hợp để phát triển, môi trường sinh sống và học tập cũng là nơi có thể nuôi dưỡng những mầm móng của rối loạn trầm cảm. Ví như trong môi trường bạo lực học đường, học sinh đóng vai trò nạn nhân sẽ có xu hướng hình thành rối loạn trầm cảm ở tuổi thanh thiếu niên [2]. Vì thế, việc sắp xếp nơi sống thích hợp và thực hành các biện pháp nuôi dưỡng cảm xúc, ví dụ thiền định, cũng là những điều được các tâm lý gia lưu ý khi tiến hành các phương pháp điều trị.

Trầm cảm có thể điều trị được không?

Theo đà phát triển của ngành tâm lý học, chúng ta có rất nhiều cách chữa trị cho rối loạn trầm cảm. Phổ biến nhất là hai phương pháp như sau:

  • Thuốc: Thông thường, một số loại thuốc chống trầm cảm (antidepressants) sẽ được kê đơn khi thân chủ có những triệu chứng trầm cảm nặng và có ảnh hướng lớn tới khả năng sinh hoạt thường ngày. Những thuốc này có thể giúp ức chế một số chất dẫn truyền thần kinh liên quan tới trầm cảm hoặc thúc đẩy những chất giúp cải thiện tâm trạng như dopamine. Tuy nhiên, thuốc trầm cảm cũng có những tác dụng phụ tương ứng như buồn nôn, khó chịu dạ dày, hay rối loạn nhịp tim. Vì vậy, các chuyên viên thường khuyến cáo chỉ nên sử dụng thuốc chống trầm cảm khi được kê đơn và dưới sự giám sát của bác sĩ tâm thần.
  • Tâm lý trị liệu (psychotherapy): Các tâm lý gia có thể sử dụng các kỹ thuật trị liệu bằng lời nói trợ giúp thân chủ nhận biết và cải thiện các vấn đề liên quan tới tâm lý, bao gồm rối loạn trầm cảm và các rối loạn khác. Ví như liệu pháp hành vi nhận thức (Cognitive Behavioural Therapy) là một công cụ rất hữu ích để hỗ trợ thân chủ thay đổi nhiều góc nhìn khác nhau cho một vấn đề nhằm thay đổi cảm xúc không tích cực và nâng cao sức khỏe tâm thần.

Kết

Ngoài những phương pháp kể trên, chúng ta cũng có thể thay đổi lối sống nhằm cải thiện các triệu chứng trầm cảm. Chẳng hạn như tập thể dục thường xuyên, ngủ đủ giấc, chế độ ăn uống hợp lý, tránh sử dụng các thức uống có cồn. Bên cạnh đó, dành thời gian bên những người mình yêu thương như gia đình và bạn bè cũng là một điều cần thiết để giảm các triệu chứng trầm cảm. Sự đồng hành và hỗ trợ bởi những người xung quanh luôn là một món quà trong quá trình điều trị không mấy dễ dàng. Vì thế, chỉ cần đôi câu hỏi han cũng là sự cổ vũ đáng kể giúp các bạn vượt qua rối loạn trầm cảm này.

Sự đồng hành là một món quà đối với người mắc trầm cảm (Ảnh: wokandapix@pexel)

Tài liệu tham khảo

1. American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). https://doi.org/10.1176/appi.books.9780890425596

2. Kehusmaa, J., Ruotsalainen, H., Männikkö, N., Alakokkare, A.-E., Niemelä, M., Jääskeläinen, E., & Miettunen, J. (2022). The association between the social environment of childhood and adolescence and depression in young adulthood – A prospective cohort study. Journal of affective disorders, 305, 37-46. https://doi.org/10.1016/j.jad.2022.02.067

3. Shadrina, M., Bondarenko, E. A., & Slominsky, P. A. (2018). Genetics factors in major depression disease. Frontiers in psychiatry, 9, 334. https://doi.org/10.3389/fpsyt.2018.00334

4. Worth Health Organization. (2023). Depressive disorder (depression). https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/depression